Sức sinh sản là gì? Các công bố khoa học về Sức sinh sản

Sức sinh sản, hay còn gọi là năng suất sinh sản, là khả năng của một loài hoặc một cá thể trong việc sinh sản và tạo ra con cái. Sức sinh sản được đo lường dựa ...

Sức sinh sản, hay còn gọi là năng suất sinh sản, là khả năng của một loài hoặc một cá thể trong việc sinh sản và tạo ra con cái. Sức sinh sản được đo lường dựa trên tần suất sinh sản, số lượng con cái sinh ra, và khả năng sinh sản của cá thể.

Sức sinh sản có vai trò quan trọng trong việc duy trì và phân bố các loài trong tự nhiên. Nó ảnh hưởng đến sự đa dạng sinh học và sự phát triển của các quần thể động vật và thực vật. Sức sinh sản cũng là yếu tố quan trọng trong quản lý tài nguyên sinh vật học và bảo vệ môi trường.

Đối với con người, sức sinh sản cũng quan trọng và ảnh hưởng đến tỷ lệ tăng dân số, chất lượng cuộc sống, và quản lý tài nguyên. Việc điều chỉnh sức sinh sản là một phần quan trọng của chính sách dân số và phát triển của các quốc gia.
Sức sinh sản có thể được ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố như tuổi tác, sức khỏe, môi trường sống, chế độ dinh dưỡng, và điều kiện sống. Các nhà sinh thái học và chuyên gia về dân số thường nghiên cứu sức sinh sản để hiểu rõ hơn về tình hình phân bố và tương tác của các loài trong các hệ sinh thái.

Trong ngành nông nghiệp và chăn nuôi, sức sinh sản của động vật, cây trồng cũng được quan tâm để tối ưu hóa năng suất sản xuất.

Tuy nhiên, việc quản lý sức sinh sản cũng đôi khi trở thành vấn đề nhạy cảm, nhất là trong trường hợp cần phải kiểm soát dân số để đảm bảo sự cân bằng giữa tài nguyên và dân số, cũng như để giảm thiểu tác động tiêu cực đối với môi trường sống.
Sức sinh sản cũng liên quan đến khía cạnh kinh tế xã hội. Ví dụ, ở các quốc gia đang phát triển, sức sinh sản đôi khi được xem xét trong việc phát triển kinh tế và xã hội. Việc điều chỉnh sức sinh sản có thể ảnh hưởng đến kích thước lao động, tăng tr

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "sức sinh sản":

Liên Minh Đồng Tính – Dị Tính Liên Quan Đến Sức Khỏe Học Sinh: So Sánh Đa Trường Giữa Thanh Niên LGBTQ và Dị Tính Dịch bởi AI
Journal of Research on Adolescence - Tập 23 Số 2 - Trang 319-330 - 2013

Một vài nghiên cứu đã khám phá các yếu tố liên quan đến trường học ảnh hưởng đến sự biến đổi trong tình trạng bị bắt nạt và sức khỏe của thanh niên đồng tính, song tính, chuyển giới và không xác định giới tính (LGBTQ). Trong số 15,965 học sinh tại 45 trường học ở Wisconsin, chúng tôi đã xác định sự khác biệt dựa trên sự hiện diện của Liên Minh Đồng Tính – Dị Tính (GSA). Thanh niên trong các trường có GSA báo cáo ít tình trạng trốn học, hút thuốc, uống rượu, cố gắng tự sát, và quan hệ tình dục với bạn tình không quen thuộc hơn so với những học sinh tại các trường không có GSA, với sự khác biệt này lớn hơn đối với thanh niên LGBTQ so với thanh niên dị tính. Sự khác biệt dựa trên GSA lớn nhất ở các thiếu nữ thuộc nhóm thiểu số giới tính về việc quan hệ tình dục khi sử dụng ma túy. Hiệu ứng của GSA không có ý nghĩa thống kê đối với sự bắt nạt nói chung hoặc sự bắt nạt do kỳ thị giới tính, điểm số, và cảm giác thuộc về trường. Các phát hiện này cho thấy GSA có thể đóng góp vào việc giảm nhẹ một loạt các nguy cơ sức khỏe, đặc biệt là đối với thanh niên LGBTQ.

#LGBTQ #Gay–Straight Alliance #sức khỏe học sinh #Wisconsin #sự bắt nạt #rủi ro sức khỏe #giới tính thiểu số
Sự tiếp xúc với bạo lực trong thời thơ ấu và sức khỏe suốt đời: Khoa học can thiệp lâm sàng và nghiên cứu sinh học căng thẳng hợp sức Dịch bởi AI
Development and Psychopathology - Tập 25 Số 4pt2 - Trang 1619-1634 - 2013
Tóm tắt

Các bạn trẻ bị ngược đãi bởi người lớn, bị bắt nạt, tấn công hình sự, hoặc chứng kiến нас bạo lực gia đình thường phản ứng với sự tiếp xúc với bạo lực này bằng cách phát triển các vấn đề về hành vi, cảm xúc hoặc học tập. Điều ít được biết đến hơn là những trải nghiệm tiêu cực như sự tiếp xúc với bạo lực có thể dẫn đến những thay đổi thể chất ẩn bên trong cơ thể trẻ, những thay đổi có thể gây ra tác động bất lợi đến sức khỏe suốt đời. Chúng tôi bàn luận về lý do tại sao điều này quan trọng đối với lĩnh vực tâm thần phát triển và đối với xã hội, và chúng tôi khuyến nghị rằng nghiên cứu sinh học căng thẳng và khoa học can thiệp nên hợp tác để giải quyết vấn đề này. Chúng tôi xem xét các bằng chứng liên quan đến các biện pháp nhạy cảm với căng thẳng cho cơ thể (phản ứng viêm, sự xói mòn telomere, metyl hóa epigenetic, và biểu hiện gen) và não bộ (các rối loạn tâm thần, hình ảnh thần kinh và kiểm tra tâm lý thần kinh). Chúng tôi cũng xem xét các can thiệp hứa hẹn cho các gia đình, cặp đôi và trẻ em đã được thiết kế để giảm thiểu ảnh hưởng của việc tiếp xúc với bạo lực trong thời thơ ấu. Chúng tôi mời các nhà khoa học can thiệp và các nhà nghiên cứu sinh học căng thẳng hợp tác trong việc bổ sung các biện pháp sinh học căng thẳng vào các thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên của các can thiệp nhằm giảm thiểu tác động của việc tiếp xúc với bạo lực và các chấn thương khác lên thanh thiếu niên.

#bạo lực trẻ em #sức khỏe suốt đời #can thiệp lâm sàng #sinh học căng thẳng #tâm thần học phát triển
Đánh giá rủi ro bệnh viêm miệng lợn đối với gia súc ở Vương quốc Anh: phân tích sự không chắc chắn và độ nhạy của mô hình phụ thuộc vào nhiệt độ cho số sinh sản cơ bản Dịch bởi AI
Journal of the Royal Society Interface - Tập 5 Số 20 - Trang 363-371 - 2008

Kể từ năm 1998, virus viêm miệng lợn (BTV), gây ra bệnh bluetongue, một căn bệnh truyền nhiễm không lây lan qua côn trùng ở động vật nhai lại, đã mở rộng về phía bắc tại Châu Âu trong một loạt các cuộc xâm nhập chưa từng thấy, cho thấy có nguy cơ đối với ngành chăn nuôi gia súc có giá trị lớn tại Vương quốc Anh. Số sinh sản cơ bản,R0, cung cấp một công cụ mạnh mẽ để đánh giá mức độ rủi ro mà một căn bệnh gây ra. Trong bài báo này, chúng tôi tính toán R0 cho BTV trong một quần thể gồm hai loài chủ, bò và cừu. Các ước lượng cho từng tham số ảnh hưởng đến R0 được thu thập từ tài liệu đã công bố, sử dụng những cái có liên quan đến tình hình tại Vương quốc Anh bất cứ khi nào có thể. Hơn nữa, đã bao gồm sự phụ thuộc nhiệt độ rõ ràng cho các tham số mà nó đã được định lượng. Phân tích độ không chắc chắn và độ nhạy dựa trên mẫu hypercube Latin và hệ số tương quan hạng một phần đã xác định nhiệt độ, xác suất truyền từ chủ sang véc-tơ và tỷ lệ véc-tơ so với chủ là những yếu tố quan trọng nhất quyết định quy mô của R0. Tầm quan trọng của nhiệt độ phản ánh thực tế rằng nó ảnh hưởng đến nhiều quá trình liên quan đến sự lây truyền của BTV và, đặc biệt, tỷ lệ cắn, thời gian ủ bệnh bên ngoài và tỷ lệ tử vong của véc-tơ.

Đánh giá sức khỏe sinh sản và насмг chế bạo đối với phụ nữ trong cộng đồng người Syri bị di dời tại Lebanon Dịch bởi AI
Springer Science and Business Media LLC - - 2014
Tóm tắt Đặt vấn đề

Cuộc xung đột hiện tại ở Syria tiếp tục buộc hàng ngàn người di dời sang các quốc gia lân cận, bao gồm cả Lebanon. Cần có thông tin để cung cấp dịch vụ sức khỏe và các dịch vụ liên quan một cách đầy đủ, đặc biệt là cho phụ nữ trong cộng đồng di dời này.

Phương pháp

Chúng tôi đã thực hiện một cuộc đánh giá nhu cầu tại Lebanon (tháng 6-8 năm 2012), tiến hành một cuộc khảo sát cắt ngang tại sáu phòng khám sức khỏe. Thông tin đã được thu thập về tình trạng sức khỏe sinh sản và sức khỏe tổng quát, bạo lực trong xung đột, căng thẳng, và hành vi tìm kiếm sự giúp đỡ của phụ nữ di dời người Syria. Các phân tích bivariate và multivariate đã được thực hiện để xem xét mối liên hệ giữa việc tiếp xúc với bạo lực trong xung đột, căng thẳng, và kết quả sức khỏe sinh sản.

#sức khỏe sinh sản #phụ nữ #bạo lực #người tị nạn #Syria #Lebanon
Đồng bộ ra hoa thúc đẩy thành công sinh sản ở cây gió thụ phấn Dịch bởi AI
Ecology Letters - Tập 23 Số 12 - Trang 1820-1826 - 2020
Tóm tắt

Sản xuất hạt đồng bộ và gần như định kỳ bởi các quần thể thực vật, được gọi là hiện tượng ra hạt, liên quan đến nhiều quá trình sinh thái, nhưng cách thức xảy ra vẫn chưa được hiểu rõ. Động lực ra hoa và thụ phấn được giả thuyết là cầu nối cơ chế cho mối quan hệ quan sát giữa thời tiết và sản xuất hạt ở cấp độ quần thể. Chúng tôi báo cáo thử nghiệm đầu tiên về giả thuyết đồng bộ pheno như một yếu tố thúc đẩy sự hạn chế phấn hoa trong các cây sồi ra hạt (Quercus ilex). Sự đồng bộ ra hoa cao hơn mang lại hiệu quả thụ phấn tốt hơn, dẫn đến số lượng hạt tăng gấp 2 lần ở các cây sồi đồng bộ cao so với những cây không đồng bộ. Việc bổ sung phấn hoa đã loại bỏ tác động tiêu cực của ra hoa không đồng bộ lên số lượng hạt. Bởi vì sự đồng bộ pheno hoạt động thông qua sự biến đổi môi trường, kết quả này gợi ý rằng hiện tượng ra hạt ở cây sồi được đồng bộ hóa bởi các yếu tố bên ngoài thay vì các yếu tố bên trong. Nó cũng chỉ ra một cơ chế mà qua đó sự thay đổi trong sinh thái học ra hoa có thể ảnh hưởng đến sự sinh sản của các loài thực vật ra hạt, với những hệ quả tiếp theo cho động lực cộng đồng.

Nhu cầu sức khỏe tình dục và sinh sản của thanh niên sống với HIV ở các quốc gia có thu nhập thấp và trung bình: một nghiên cứu tổng quan Dịch bởi AI
Springer Science and Business Media LLC - - 2021
Tóm tắtNền tảng

Thanh niên sống với HIV (YPLWH) ở các quốc gia có thu nhập thấp và trung bình đang vào độ tuổi vị thành niên và thanh niên với số lượng đáng kể. Phần lớn nghiên cứu liên quan đến HIV trên nhóm thanh niên này tập trung vào các kết quả lâm sàng với ít sự chú ý hơn đến sức khỏe tình dục và sinh sản (SRH) của họ. Đã có sự gia tăng nhận thức về tầm quan trọng của việc hiểu và giải quyết những nhu cầu về SRH của họ, vì nhiều người có nguy cơ cao trong việc lây truyền HIV cho bạn tình, đặc biệt là phụ nữ trẻ có nguy cơ cao trong việc lây truyền HIV cho trẻ sơ sinh của họ. Mục đích của bài tổng quan này là tổng hợp nghiên cứu điều tra nhu cầu SRH của thanh niên sống với HIV ở các quốc gia có thu nhập thấp và trung bình.

Phương pháp

Chúng tôi đã tìm kiếm các cơ sở dữ liệu điện tử cho các nghiên cứu tập trung vào thanh niên từ 10–24 tuổi và 27 nghiên cứu đã đáp ứng tiêu chí bao gồm.

Kết quả

Bài tổng quan này đã xác định bốn chủ đề đặc trưng cho nghiên cứu về SRH ở thanh niên sống với HIV: kiến thức về SRH, quyền tiếp cận dịch vụ SRH, thực hành tình dục, và kế hoạch gia đình và nuôi dạy trẻ trong tương lai.

Kết luận

Những phát hiện của chúng tôi cho thấy cần có thêm nghiên cứu về giáo dục tình dục toàn diện để trang bị cho YPLWH kiến thức nhằm hỗ trợ các kết quả SRH mong muốn, các can thiệp về việc tiết lộ tình trạng huyết thanh và sử dụng bao cao su, và khả năng của các nhà cung cấp dịch vụ sức khỏe trong việc cung cấp dịch vụ SRH trong chăm sóc lâm sàng HIV hiện có của họ.

Hình thức phân biệt chủng tộc lịch sự nhất: khuôn khổ về sức khỏe và quyền sinh sản tại Canada Dịch bởi AI
Springer Science and Business Media LLC - - 2021
Tóm tắt

Danh tính quốc gia Canada thường được hiểu theo cách mà nó không phải là: Mỹ. Sự ngập tràn trong lịch sử, tin tức và văn hóa của Mỹ xung quanh chủng tộc và phân biệt chủng tộc đã khiến người Canada có một ấn tượng sai lầm về chủ nghĩa bình đẳng, dẫn đến sự thiếu thốn trong việc phản ánh quốc gia một cách nghiêm túc. Mặc dù điều này đúng trong một số trường hợp, nhưng thực tế tàn khốc về sự bất bình đẳng, bất công và phân biệt chủng tộc vẫn phổ biến trong lĩnh vực sức khỏe và quyền sinh sản tại Canada. Thật vậy, những kết quả sức khỏe không công bằng đối với những người da đen, người bản địa và những người có màu da (BIPOC) được bắt nguồn từ chính sách, nghiên cứu, quảng bá sức khỏe và chăm sóc bệnh nhân. Nhiều hệ thống hiện tại được xây dựng bởi những người định cư thực dân vẫn chưa bắt đầu tiến trình cần thiết để giải quyết những cấu trúc thực dân, phân biệt chủng tộc và phân biệt khả năng tàn tật, perpetuating những bất bình đẳng trong kết quả sức khỏe. Thực tế rằng Canada tự nhìn nhận mình là tốt hơn Mỹ về quan hệ chủng tộc là một cái cớ để phớt lờ hàng thập kỷ phân biệt chủng tộc và văn hóa đối với người bản địa và người da đen. Trong khi bình luận này có thể không phải là một bước đột phá cho các cộng đồng BIPOC đã luôn lên tiếng về vấn đề này ở cấp cơ sở trong nhiều thập kỷ, vẫn còn một khoảng trống trong tài liệu Canada khi khám phá những động lực khó khăn và thường là những yếu tố tiềm ẩn của phân biệt chủng tộc. Trong loạt bài bình luận này, các tác giả nhằm thúc đẩy các chiến lược giải quyết phân biệt chủng tộc có hệ thống và tích hợp khuôn khổ công lý sinh sản nhằm cố gắng giảm thiểu sự bất bình đẳng về sức khỏe giữa cộng đồng người bản địa, người da đen và các cộng đồng có màu da tại Canada.

Kiệt sức nghề nghiệp của điều dưỡng phòng mổ tại Bệnh viện Phụ sản Trung ương năm 2022
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐIỀU DƯỠNG - Tập 6 Số 02 - Trang 91-99 - 2023
Mục tiêu: Khảo sát mức độ kiệt sức nghề nghiệp của điều dưỡng phòng mổ tại Bệnh viện Phụ sản Trung ương năm 2022. Đối tượng và phương pháp: Sử dụng phương pháp nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 63 điều dưỡng. Mô tả mức độ kiệt sức nghề nghiệp bằng thang đo hội chứng kiệt sức nghề nghiệp Maslach (MBI). Nghiên cứu sử dụng thang đo MBI theo phiên bản đã được chuẩn hóa tại Việt Nam sau khi nghiên cứu trên điều dưỡng lâm sàng, gồm 3 mục: Kiệt sức cảm xúc, tính tiêu cực và giảm thành tích cá nhân (hiệu quả công việc). Kết quả: Tỷ lệ điều dưỡng bị kiệt sức nghề nghiệp là 19,0%. Trong đó 39,7% kiệt sức cảm xúc; 47,6% kiệt sức tiêu cực và 76,2% giảm thành tích cá nhân. Ở khía cạnh kiệt sức cảm xúc: Tỷ lệ cao nhất có 22,2% điều dưỡng cảm thấy mỗi ngày bị sử dụng hết năng lượng vào cuối ngày làm việc; 17,5% điều dưỡng cảm thấy mỗi ngày đều mệt mỏi khi thức dậy vào buổi sáng và đối mặt với một ngày làm việc tiếp theo (17,5%). Ở khía cạnh kiệt sức tính tiêu cực: cao nhất có 12,7% điều dưỡng mỗi ngày đều lo lắng công việc này sẽ làm tôi chai cứng cảm xúc; 12,7% điều dưỡng cảm thấy mỗi ngày đều đang làm việc quá sức. Kết luận: Tình trạng kiệt sức của điều dưỡng ở mức độ trung bình. Tuy nhiên tình trạng kiệt sức ở các cấu phần vẫn ở mức cao.
#Kiệt sức nghề nghiệp #Sinh viên Điều dưỡng #MBI
Hoạt động giáo dục sức khỏe của điều dưỡng tại Bệnh viện phụ sản Thiện An năm 2022
Đặt vấn đề: Hoạt động giáo dục sức khỏe là hoạt động quan trọng của điều dưỡng. Hoạt động này góp phần nâng cao sức khỏe cho người bệnh. Mục tiêu: Mô tả phản hồi của người bệnh về hoạt động giáo dục sức khỏe của điều dưỡng tại Bệnh viện Phụ Sản Thiện An năm 2022. Phương pháp: cắt ngang trên toàn bộ 390 người bệnh điều trị nội trú trong thời gian từ tháng 4/2022 -10/2022 đồng ý tham gia vào nghiên cứu. Bộ công cụ phát vấn gồm 16 câu nhằm đánh giá mức độ hoạt động tư vấn giáo dục sức khỏe của điều dưỡng. Kết quả: Tỷ lệ người bệnh phản hồi mức độ chất lượng công tác giáo dục sức khỏe của điều dưỡng ở mức tốt là 93,6%; mức khá là 6,5%. Tỷ lệ người bệnh được tư vấn khi làm thủ tục nhập viện là 89,0%; khi nằm viện là 92,6%; trước khi ra viện là 85,1% và cả ba thời điểm là 81,5%. Tỷ lệ người bệnh có cảm nhận tốt về năng lực giáo dục sức khỏe của điều dưỡng ở mức tốt là 19,5%; mức rất tốt là 80,5%. Phản hồi của người bệnh về điều dưỡng tư vấn cho người bệnh ở mức dễ hiểu là 99,7%; khó hiểu là 0,3%. Có mối liên quan giữa trình độ người bệnh và mức độ đánh giá hoạt động giáo dục sức khỏe của điều dưỡng, hộ sinh. Kết luận: Mức độ phản hồi giáo dục sức khỏe của người bệnh tại địa điểm nghiên cứu đa phần ở mức tốt, tỷ lệ được tư vấn cả 3 thời điểm nhập viện, nằm viện, ra viện cao và có mối liên quan đến trình độ của người bệnh.
#Tư vấn giáo dục sức khỏe #điều dưỡng #hộ sinh
Tổng số: 125   
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
  • 6
  • 10