Sức sinh sản là gì? Các công bố khoa học về Sức sinh sản

Sức sinh sản, hay còn gọi là năng suất sinh sản, là khả năng của một loài hoặc một cá thể trong việc sinh sản và tạo ra con cái. Sức sinh sản được đo lường dựa ...

Sức sinh sản, hay còn gọi là năng suất sinh sản, là khả năng của một loài hoặc một cá thể trong việc sinh sản và tạo ra con cái. Sức sinh sản được đo lường dựa trên tần suất sinh sản, số lượng con cái sinh ra, và khả năng sinh sản của cá thể.

Sức sinh sản có vai trò quan trọng trong việc duy trì và phân bố các loài trong tự nhiên. Nó ảnh hưởng đến sự đa dạng sinh học và sự phát triển của các quần thể động vật và thực vật. Sức sinh sản cũng là yếu tố quan trọng trong quản lý tài nguyên sinh vật học và bảo vệ môi trường.

Đối với con người, sức sinh sản cũng quan trọng và ảnh hưởng đến tỷ lệ tăng dân số, chất lượng cuộc sống, và quản lý tài nguyên. Việc điều chỉnh sức sinh sản là một phần quan trọng của chính sách dân số và phát triển của các quốc gia.
Sức sinh sản có thể được ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố như tuổi tác, sức khỏe, môi trường sống, chế độ dinh dưỡng, và điều kiện sống. Các nhà sinh thái học và chuyên gia về dân số thường nghiên cứu sức sinh sản để hiểu rõ hơn về tình hình phân bố và tương tác của các loài trong các hệ sinh thái.

Trong ngành nông nghiệp và chăn nuôi, sức sinh sản của động vật, cây trồng cũng được quan tâm để tối ưu hóa năng suất sản xuất.

Tuy nhiên, việc quản lý sức sinh sản cũng đôi khi trở thành vấn đề nhạy cảm, nhất là trong trường hợp cần phải kiểm soát dân số để đảm bảo sự cân bằng giữa tài nguyên và dân số, cũng như để giảm thiểu tác động tiêu cực đối với môi trường sống.
Sức sinh sản cũng liên quan đến khía cạnh kinh tế xã hội. Ví dụ, ở các quốc gia đang phát triển, sức sinh sản đôi khi được xem xét trong việc phát triển kinh tế và xã hội. Việc điều chỉnh sức sinh sản có thể ảnh hưởng đến kích thước lao động, tăng tr

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "sức sinh sản":

Kiệt sức nghề nghiệp của điều dưỡng phòng mổ tại Bệnh viện Phụ sản Trung ương năm 2022
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐIỀU DƯỠNG - Tập 6 Số 02 - Trang 91-99 - 2023
Mục tiêu: Khảo sát mức độ kiệt sức nghề nghiệp của điều dưỡng phòng mổ tại Bệnh viện Phụ sản Trung ương năm 2022. Đối tượng và phương pháp: Sử dụng phương pháp nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 63 điều dưỡng. Mô tả mức độ kiệt sức nghề nghiệp bằng thang đo hội chứng kiệt sức nghề nghiệp Maslach (MBI). Nghiên cứu sử dụng thang đo MBI theo phiên bản đã được chuẩn hóa tại Việt Nam sau khi nghiên cứu trên điều dưỡng lâm sàng, gồm 3 mục: Kiệt sức cảm xúc, tính tiêu cực và giảm thành tích cá nhân (hiệu quả công việc). Kết quả: Tỷ lệ điều dưỡng bị kiệt sức nghề nghiệp là 19,0%. Trong đó 39,7% kiệt sức cảm xúc; 47,6% kiệt sức tiêu cực và 76,2% giảm thành tích cá nhân. Ở khía cạnh kiệt sức cảm xúc: Tỷ lệ cao nhất có 22,2% điều dưỡng cảm thấy mỗi ngày bị sử dụng hết năng lượng vào cuối ngày làm việc; 17,5% điều dưỡng cảm thấy mỗi ngày đều mệt mỏi khi thức dậy vào buổi sáng và đối mặt với một ngày làm việc tiếp theo (17,5%). Ở khía cạnh kiệt sức tính tiêu cực: cao nhất có 12,7% điều dưỡng mỗi ngày đều lo lắng công việc này sẽ làm tôi chai cứng cảm xúc; 12,7% điều dưỡng cảm thấy mỗi ngày đều đang làm việc quá sức. Kết luận: Tình trạng kiệt sức của điều dưỡng ở mức độ trung bình. Tuy nhiên tình trạng kiệt sức ở các cấu phần vẫn ở mức cao.
#Kiệt sức nghề nghiệp #Sinh viên Điều dưỡng #MBI
Thay đổi thái độ của bà mẹ về chăm sóc trẻ vàng da sơ sinh tại Bệnh viện Phụ sản tỉnh Nam Định sau can thiệp giáo dục
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐIỀU DƯỠNG - Tập 2 Số 2 - Trang 38-43 - 2019
Mục tiêu: Đánh giá sự thay đổi thái độ của bà mẹ về chăm sóc trẻ vàng da sơ sinh sau giáo dục sức khỏe tại bệnh viện Phụ Sản tỉnh Nam Định. Đối tượng và phương pháp: Can thiệp một nhóm có so sánh trước sau trên 151 bà mẹ về thái độ chăm sóc trẻ vàng da sơ sinh tại bệnh viện Phụ Sản tỉnh Nam Định từ tháng 1/2015 đến tháng 9/2015. Kết quả: Thái độ chăm sóc của bà mẹ về vàng da sơ sinh trước giáo dục sức khoẻ còn thấp. Sau giáo dục sức khoẻ, thái độ của bà mẹ được cải thiện rõ rệt. Tỷ lệ bà mẹ có thái độ rất tích cực tăng từ 15,5% lên 45,9%, thái độ chưa tích cực giảm từ 20,3% xuống 4,7%. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p <0,05. Kết luận: Thái độ rất tích cực của bà mẹ về chăm sóc trẻ vàng da sơ sinh còn thấp. Sau giáo dục sức khoẻ, thái độ của bà mẹ về chăm sóc trẻ vàng da sơ sinh được cải thiện rõ rệt.
#Vàng da sơ sinh #giáo dục sức khoẻ #thay đổi thái độ
Hoạt động giáo dục sức khỏe của điều dưỡng tại Bệnh viện phụ sản Thiện An năm 2022
Đặt vấn đề: Hoạt động giáo dục sức khỏe là hoạt động quan trọng của điều dưỡng. Hoạt động này góp phần nâng cao sức khỏe cho người bệnh. Mục tiêu: Mô tả phản hồi của người bệnh về hoạt động giáo dục sức khỏe của điều dưỡng tại Bệnh viện Phụ Sản Thiện An năm 2022. Phương pháp: cắt ngang trên toàn bộ 390 người bệnh điều trị nội trú trong thời gian từ tháng 4/2022 -10/2022 đồng ý tham gia vào nghiên cứu. Bộ công cụ phát vấn gồm 16 câu nhằm đánh giá mức độ hoạt động tư vấn giáo dục sức khỏe của điều dưỡng. Kết quả: Tỷ lệ người bệnh phản hồi mức độ chất lượng công tác giáo dục sức khỏe của điều dưỡng ở mức tốt là 93,6%; mức khá là 6,5%. Tỷ lệ người bệnh được tư vấn khi làm thủ tục nhập viện là 89,0%; khi nằm viện là 92,6%; trước khi ra viện là 85,1% và cả ba thời điểm là 81,5%. Tỷ lệ người bệnh có cảm nhận tốt về năng lực giáo dục sức khỏe của điều dưỡng ở mức tốt là 19,5%; mức rất tốt là 80,5%. Phản hồi của người bệnh về điều dưỡng tư vấn cho người bệnh ở mức dễ hiểu là 99,7%; khó hiểu là 0,3%. Có mối liên quan giữa trình độ người bệnh và mức độ đánh giá hoạt động giáo dục sức khỏe của điều dưỡng, hộ sinh. Kết luận: Mức độ phản hồi giáo dục sức khỏe của người bệnh tại địa điểm nghiên cứu đa phần ở mức tốt, tỷ lệ được tư vấn cả 3 thời điểm nhập viện, nằm viện, ra viện cao và có mối liên quan đến trình độ của người bệnh.
#Tư vấn giáo dục sức khỏe #điều dưỡng #hộ sinh
SO SÁNH THỜI GIAN TRƠ ĐƯỜNG PHỤ ƯỚC TÍNH BẰNG NGHIỆM PHÁP GẮNG SỨC ĐIỆN TÂM ĐỒ VÀ XÁC ĐỊNH BẰNG THĂM DÒ ĐIỆN SINH LÝ TIM Ở BỆNH NHÂN WPW KHÔNG TRIỆU CHỨNG
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 510 Số 2 - 2022
Nghiên cứu mối tương quan giữa thời gian trơ hiệu quả theo chiều xuôi (AP AERP) ước tính bằng nghiệm pháp gắng sức (EST) điện tâm đồ với giá trị AP AERP xác định bằng thăm dò điện sinh lý (EPS) ở bệnh nhân Wolff – Parkinson - White (WPW) không triệu chứng. Nghiên cứu tiến hành trên 35 bệnh nhân WPW không triệu chứng. Các bệnh nhân được phân tầng nguy cơ bằng EST: các bệnh nhân nguy cơ thấp sẽ ước tính AP AERP dựa vào tần số tim tại thời điểm tiền kích thích đột ngột biến mất, các bệnh nhân nguy cơ cao ước tính AP AERP dựa vào tần số tim tối đa bệnh nhân đạt được khi tiến hành nghiệm pháp. Các đối tượng nghiên cứu sau đó được tiến hành EPS xác định AP AERP. Các giá trị AP AERP thu được từ 2 phương pháp được so sánh và kiểm định. Có 6 bệnh nhân được phân tầng nguy cơ thấp bằng EST, AP AERP ước tính bằng EST của các bệnh nhân này là 469 ± 84 ms, không khác biệt có ý nghĩa thống kê so với giá trị xác định bằng EPS là 451± 128 ms. 29 bệnh nhân được phân tầng nguy cơ cao bằng EST, AP AERP ước tính bằng EST là 379 ± 31 ms, dài hơn có ý nghĩa thống kê so với giá trị xác định bằng EPS là 298± 77 ms.Các bệnh nhân WPW không triệu chứng khi làm EST có kết quả không phải phân tầng nguy cơ thấp cần được thăm dò điện sinh lý tim và triệt đốt đường dẫn truyền phụ nhĩ thất.
#Trơ hiệu quả theo chiều xuôi #nghiệp pháp gắng sức #thăm dò điện sinh lý #WPW không triệu chứng
ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC SINH SẢN CỦA SÒ MÍA (Tapes dorsatus, (Lamarck, 1818)) TẠI BÌNH ĐỊNH: THE REPRODUCTIVE BIOLOGY OF CLAM (Tapes dorsatus, (Lamarck, 1818)) IN BINH DINH
Tạp chí Khoa học và Công nghệ Nông nghiệp - Tập 3 Số 3 - Trang 1571-1581 - 2019
Sò Mía (Tapes dorsatus) là loài hai mảnh vỏ thịt thơm ngon, giàu dinh dưỡng và có giá trị kinh tế cao. Đặc điểm sinh học sinh sản của sò Mía phân bố tại vùng ven biển Bình Định được nghiên cứu từ tháng 6 năm 2018 đến tháng 5 năm 2019. Kết quả cho thấy: mùa vụ sinh sản của sò Mía quanh năm, tập trung từ tháng 9 năm trước đến tháng 4 năm sau, rộ nhất vào tháng 3. Tỷ lệ đực/cái các tháng trong năm dao động từ 0,89 - 1,18; tỷ lệ đực/cái giảm theo chiều tăng kích thước chiều dài. Sò Mía thành thục sinh dục lần đầu khi chiều dài 51 mm. Hệ số sinh dục (GI) của sò Mía cao nhất vào tháng 3 (38% đối với sò cái và 35% đối với sò đực), thấp nhất vào tháng 8 đối với sò cái (31%) và tháng 7 đối với sò đực (30%); GI của sò Mía tăng theo kích thước chiều dài. Sức sinh sản tuyệt đối (Fa) dao động từ 837.300 - 2.562.900 trứng/cá thể, trung bình 1.433.734 trứng/cá thể; Sức sinh sản tương đối tính theo khối lượng toàn thân (Frg) dao động từ 17.012 - 46.774 trứng/g, trung bình 29.538 trứng/g. Kết quả nghiên cứu góp phần cung cấp dữ liệu cho việc sản xuất giống nhân tạo phục vụ nuôi, bảo tồn và phát triển bền vững nguồn lợi sò Mía tự nhiên. ABSTRACT The clam (Tapes dorsatus) is biavalvia with delicious and nutritious meat, and high economic value. The study on reproductive biology of clam (Tapes dorsatus, (Lamarck, 1818)) was conducted from June 2018 to May 2019 in the coastal zone of Binh Dinh province. The result showed that the spawning season was yearround, concentrated from September last year to April this year and the peak of spawning occurred in March. The sex ratio in the population (male: female) from 0,89 to 1,18, the average was 1: 1, the sex ratio (male: female) decreased with increasing the size of the length. The first size sexual maturity of the clam Tapes dorsatus when its length was 51 mm. The gonado index (GI) of the clam was the highest value in March (38% for female, 35% for male clam) and the lowest value in August for female and in July for male (31% for female, 30% for male clam); The GI increased in proportion to the length of the clam. Absolute fecundity (Fa) ranged from 837.300 to 2.562.900 eggs/individual, the average is 1.433.734 eggs/individual. Relative fecundity by body weight (Frg) is 29.538 eggs/gr. Our findings contribute information to the artificial seed production for aquaculture, conservation and sustainable development of native clam (Tapes dorsatus) resources.  
#Sò Mía (Tapes dorsatus) #Hệ số sinh dục #Mùa vụ sinh sản #Sức sinh sản #Clam (Tapes dorsatus) #Gonado Index (GI) #Spawning season
Đánh giá hiệu quả thông khí áp lực dương bằng mặt nạ thanh quản trong hồi sức sơ sinh tại Bệnh viện Phụ Sản Trung ương
Tạp chí Phụ Sản - Tập 13 Số 2A - Trang 122-125 - 2015
Giới thiệu: Bước quan trọng nhất trong hồi sức sơ sinh tại phòng đẻ là thiết lập thông khí hiệu quả. Mặt nạ thanh quản (MNTQ) là dụng cụ hồi sức hiệu quả hơn so với mặt nạ thường (MNT) và dễ sử dụng hơn so với đặt NKQ. Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả của MNTQ trong hồi sức sơ sinh tại phòng sinh. Đối tượng và phương pháp: Thử nghiệm lâm sàng tiến cứu đối chứng ngẫu nhiên 142 trẻ có cân nặng khi sinh ≥ 1500g hoặc có tuổi thai khi sinh ≥ 34 tuần có chỉ định phải hồi sức sau sinh. Kết quả: Số lượng trẻ ở nhóm MNTQ cần phải đặt ống NKQ trong quá trình hồi sức ít hơn rõ rệt so với nhóm MNT tương ứng là 1,5% và 12%.
#Hồi sức sơ sinh #mặt nạ thanh quản
Tổng số: 45   
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5